
Hiểu biết về sự chết trước khi hiến tạng Để hiểu biết về sự hiến tạng và sự khan hiếm của tạng cho, chúng ta cần có sự hiểu biết cơ bản về cái chết của người hiến tạng và tác động của nó. Trong 2.2 triệu người Mỹ chết hằng năm, chỉ một số ít đủ tiêu chuẩn về mặt y khoa cho việc hiến tạng. Chết não và hiến tạng Hầu hết những người chết hiến tạng do chết não. Họ thường chịu sự mất mát hoàn toàn và không thể phục hồi chức năng não, về mặt lâm sàng và pháp lý họ được xem là chết. Thông khí nhân tạo và thuốc được sử dụng để duy trì nhịp đập của tim và tuần hoàn đến các tạng. Ở Hoa Kỳ, ít hơn 1%- khoảng 15.000-20.000-trong tất cả cái chết là do chết não. Thường từ một tổn thương ở não do chấn thương , đột quỵ, hoặc thiếu Oxygen và được chuyển vội đến bệnh viện nơi các bác sĩ tích cực cứu chữa nhưng không thể cứu sống. Chết não là chết. Không có “sự phục phục hồi” Chết não có thể gây sự bối rối cho những gia đình khi đối diện với cái chết đột ngột của người thân mà họ yêu dấu vì một người chết não đang thở máy có thể trông như “còn sống” và khi sờ vẫn thấy ấm áp. Tim vẫn đập và sự trợ giúp của máy thở làm lồng ngực bệnh nhân vẫn nhấp nhô. Khi điều này xảy ra, một số gia đình mong mỏi rằng người họ thương yêu có thể nên được thở máy với hy vọng tình trạng của bệnh nhân sẽ cải thiện. Nhưng khi đã chết não có nghĩa sẽ không sự cải thiện hoặc phục hồi nào nữa. Có thể có máy phá rung để giúp trái tim hoạt động lại trong vòng vài phút sau ngưng tim. Nhưng không có cách nào để làm sống lại bộ não đã chết vì đã bị lấy hết máu và tế bào não đã chết. Chết não xảy ra như thế nào? Khi não bị tổn thương, nó cũng phù nề như những mô khác nhưng mô não lại phù trong một khoảng giới hạn đó là sọ. Những trường hợp gây phù não như chấn thương đầu, xuất huyết não, ngừng tim kéo dài. Sự phù não sẽ dẫn đến tụt não và tạo sự nghẽn tắc lưu thông máu lên não. Ở giai đoạn này, mặc dù tim vẫn đập và cung cấp máu đến những phần khác của cơ thể, máu chuyên chở Oxygen không thể đến não hoặc thân não. Kết quả là bệnh nhân tử vong. Tuyên bố bệnh nhân chết não Tuyên bố bệnh nhân chết não đòi hỏi sự phán xét khách quan và không tùy tiện. Chết não là một tình trạng lâm sàng có thể đo lường được và định nghĩa chính thức về tình trạng này đã được đưa ra vào năm 1981 cho nghiên cứu về những vấn đề đạo đức y khoa trong đó có tình trạng chết não, trong thời Ronald Reagan làm tổng thống. Điện não đồ của người chết não không cho thấy hoạt động điện học và khi tiêm chất đồng vị phóng xạ vào não sẽ phát hiện: hoàn toàn không có máu chảy. Những bệnh nhân chết não cũng mất phản xạ nôn. Đồng tử không đáp ứng với ánh sáng và mất phản xạ chớp mắt. Họ cũng không đáp ứng với kích thích đau và khi những kích thích thần kinh từ não xuống, phổi sẽ ngưng hoạt động- họat động sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào máy thở. Để tránh những sai sót nhỏ nhặt nhất, hầu hết các bệnh viện đòi hỏi phải có hai bác sĩ – có thể đến khám ở những giờ khác nhau – mỗi người tiến hành nhiều test để tìm ra có hay không những dấu hiệu (dù là rất nhỏ) hoạt động của não . Không một ai trong số hai bác sĩ này liên quan đến họat động hiến và ghép tạng. Họ có lẽ cũng không biết bệnh nhân sẽ là người hiến tạng hay không và cũng không cảm nghĩ của gia đình về sự ghép tạng. Nhưng các bác sĩ thường để người nhà quan sát khi thực hiện các test vì người thân được trực tiếp theo dõi họ cũng nhận biết rằng người thân yêu của họ thật sự đã chết. Không ai “ rút ổ cắm điện ” (“pull the plug”) Khi một bệnh nhân nào đó đã được tuyên bố bị chết não, người nhà không bị yêu cầu “ rút ổ cắm điện ” (đồng nghĩa với việc tước đi sự trợ giúp duy trì sự sống của bệnh nhân ) vì những hoạt động như thế không thể được: người mà họ yêu dấu đã chết rồi. Những tranh cãi về việc “ rút ổ cắm điện ” ở những bệnh nhân bị hôn mê hoặc trong tình trạng sống thực vật kéo dài sẽ không liên quan đến hoạt động hiến tạng ở đây vì những bệnh này vẫn còn hoạt động não tức chưa chết. Sự hiến tạng sau chết tim Khi một người bị chết tim, trái tim ngừng đập. Những cơ quan trọng yếu (vital organs) nhanh chóng sẽ không thể sử dụng được cho việc ghép tạng. Nhưng những mô như xương, van tim, giác mạc có thể hiến trong vòng 24 giờ đầu sau chết. Tuy nhiên, quay trở lại giống như thời kỳ hiến tạng 40 năm về trước, , một số bệnh nhân, trước khi được tuyên bố chết não, sẽ được hiến tạng sau chết tim (cardiac death). Cộng đồng y khoa đã đề cập vấn đề này với tên gọi là hiến tạng ở người tim ngưng đập (“non-heart beating donation.”) Một số bệnh nhân với những tổn thương ở não không thể cứu sống sẽ không bao giờ tiến đến tình trạng chết não vì họ vẫn duy trì một chức năng nhỏ nào đó ở thân não. Nếu những cá nhân này trước đây đã quyết định hiến tạng hoặc gia đình họ có quan tâm đến sự hiến tạng: trong trường hợp này hiến tạng có thể là một chọn lựa. Sự chọn lựa hiến tạng sau chết tim (cardiac death = “non-heart beating” ) donation có thể trình bày cho gia đình nếu rõ ràng người thân của họ không thể qua khỏi. Sự hiến tạng trong trườnh hợp này đòi hỏi sự rút máy thở, điển hình ở phòng mổ. Khi tim bệnh nhân đã ngừng đập, bác sĩ sẽ tuyên bố bệnh nhân đã chết và có thể thực hiện việc lấy tạng. Ngày nay, hiến tạng sau chết tim đã góp phần làm tăng tạng hiến , chủ yếu thận và gan, lên nhiều đến 25% tại một số nơi ở Hoa Kỳ. Một số chuyên gia ước tính điều này có khả năng tăng số lượng tạng hiến ở người chết tại Hoa Kỳ lên khoảng 30%.
|